PDA

View Full Version : Tính an ninh và pháp lý của thủ tục hải quan điện tử


colourviet2014
23-06-2014, 04:56 PM
Tính an ninh và pháp lý của thủ tục hải quan điện tử

Khi sử dụng dang ky chu ky so (http://dichvudientu.fpt.com.vn/dang-ky-gia-han-chu-ky-so) để giao tiếp online và thao tác các thủ tục hành chính điện tử như dịch vụ kê khai thuế qua mạng (http://dichvudientu.fpt.com.vn/dich-vu-ke-khai-thue-qua-mang-nhan-chong-va-chinh-xac-voi-fpt-etax), khai báo thủ tục hải quan điện tử (http://dichvudientu.fpt.com.vn/dich-vu-khai-hai-quan-dien-tu-fpt-ecustoms) vnaccs vcis,… thì vấn đề đặt ra trước tiên cho người dùng là tính an ninh và pháp lý của chúng. Bài viết sau sẽ cung cấp cho người dùng cái nhìn tổng thể về các đặc tính này của chữ ký số.

Tính an ninh

Chữ ký số đã được chứng minh về mặt kỹ thuật đảm bảo an ninh, độc nhất và chẳng thể mạo được. Chữ ký số được lưu trữ trong thiết bị đặc biệt (USB Token), bảo vệ bởi mật khẩu nên có mức đảm bảo an ninh cao.

Token là thiết bị điện tử chuẩn xác người dùng. Token thường có dạng móc chìa khóa hoặc USB với màn hình tinh thể lỏng và nút nhấn tạo mã bí mật. Mỗi Token có một số series duy nhất gồm 8 hoặc 10 ký tự ở mặt dưới của Token và được gắn độc nhất vô nhị với một khách hàng. Khi nhấn nút trên Token một dãy các mã số tình cờ sẽ xuất hiện (gồm 06 chữ số hiện ra trên màn hình phía trên Token) và đổi thay liên tục trong một khoảng thời gian nhất mực (30 giây hoặc 60 giây). mỗi mã số của Token chỉ có hiệu lực duy nhất đối với một giao tế tại một thời điểm cố định và một khách hàng cụ thể. Chuỗi số được tạo ra theo thuật toán rất phức tạp mà cho đến nay chưa có trường hợp bẻ khóa thành công nào.

Theo đó, một USB token có thể lưu trữ và bảo vệ nhiều chứng thư số và các cặp khóa ứng, nhưng USB token chỉ có độc nhất 1 mật khẩu bảo vệ. Khi sử dụng thay đổi mật khẩu có bật bộ gõ tiếng việt. Khuyến cáo người dùng không bật bộ gõ tiếng Việt khi đổi mật khẩu.

Tính pháp lý

Theo khoản 1, Điều 21 Luật giao tiếp điện tử thì “Chữ ký điện tử được kiến lập dưới dạng từ, chữ, số, ký hiệu, âm thanh hoặc các hình thức khác bằng dụng cụ điện tử, gắn liền hoặc phối hợp một cách lô gíc với thông điệp dữ liệu, có khả năng xác nhận người ký thông điệp dữ liệu và công nhận sự ưng của người đó đối với nội dung thông điệp dữ liệu được ký.”

Thông tư 180/2010/TT-BTC của Bộ Tài Chính xác nhận tính pháp lý của hình thức giao thiệp điện tử dùng chữ ký số giữa người nộp thuế và cơ thuế quan. Như vậy, khi kê khai, nộp tờ khai thuế qua mạng có dùng chữ ký số, các hồ sơ thuế điện tử có giá trị tương đương như các hồ sơ thuế được gửi trực tiếp tới cơ thuế quan.

colourviet2014
23-06-2014, 05:34 PM
Giá trị pháp lý của chữ kí điện tử khai hải quan điện tử được pháp luật Việt Nam thừa nhận
Theo Luật giao tiếp điện tử, đăng ký chữ ký số (http://dichvudientu.fpt.com.vn/dang-ky-gia-han-chu-ky-so) đã được nhận tại Việt Nam, có giá trị pháp lý rõ ràng và được ứng dụng rộng rãi trong nhiều giao tế thương điện tử, và cả những giao du pháp lý như bao cao thue qua mang (http://dichvudientu.fpt.com.vn/dich-vu-khai-hai-quan-dien-tu-fpt-ecustoms), nộp thuế điện tử vnaccs vcis,… ,…

Điều 21 Luật giao du điện tử

Theo khoản 1, Điều 21 Luật giao du điện tử khai hải quan điện tử (http://dichvudientu.fpt.com.vn/dich-vu-khai-hai-quan-dien-tu-fpt-ecustoms) thì “Chữ ký điện tử được kiến lập dưới dạng từ, chữ, số, ký hiệu, âm thanh hoặc các hình thức khác bằng phương tiện điện tử, gắn liền hoặc phối hợp một cách lô gíc với thông điệp dữ liệu, có khả năng công nhận người ký thông điệp dữ liệu và xác nhận sự ưng của người đó đối với nội dung thông điệp dữ liệu được ký.”

Điều 22 Luật giao tế điện tử

Khoản 1, Điều 22 Luật giao du điện đỗ vũ định: “Chữ ký điện tử được xem là bảo đảm an toàn nếu được kiểm chứng bằng một quy trình rà an toàn do các bên giao dịch thỏa thuận và đáp ứng được các điều kiện sau đây:

a) Dữ liệu tạo chữ ký điện tử chỉ gắn duy nhất với người ký trong bối cảnh dữ liệu đó được sử dụng;

b) Dữ liệu tạo chữ ký điện tử chỉ thuộc sự kiểm soát của người ký tại thời khắc ký;

c) Mọi thay đổi đối với chữ ký điện tử sau thời điểm ký đều có thể bị phát hiện;

d) Mọi thay đổi đối với nội dung của thông điệp dữ liệu sau thời khắc ký đều có thể bị phát hiện.

Điều 24 Luật giao du điện tử

Giá trị pháp lý của chữ ký điện tử được quy định tại Điều 24, Luật giao tế điện tử như sau:

1. Trong trường hợp pháp luật quy định văn bản cần có chữ ký thì đề nghị đó đối với một thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng nếu chữ ký điện tử được dùng để ký thông điệp dữ liệu đó đáp ứng các điều kiện sau đây:

a) Phương pháp tạo chữ ký điện tử cho phép xác minh được người ký và chứng tỏ được sự chấp nhận của người ký đối với nội dung thông điệp dữ liệu;

b) Phương pháp đó là đủ tin tưởng và ăn nhập với mục đích mà theo đó thông điệp dữ liệu được tạo ra và gửi đi.

2. Trong trường hợp luật pháp quy định văn bản cần được đóng dấu của cơ quan, tổ chức thì yêu cầu đó đối với một thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng nếu thông điệp dữ liệu đó được ký bởi chữ ký điện tử của cơ quan, tổ chức đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 22 của Luật giao du điện tử và chữ ký điện tử đó có chứng nhận.