Thanh Sang
06-01-2020, 03:27 PM
cùng có tầm quan yếu ngày càng tăng của có trí óc, các tranh chấp về quyền sở hữu trí não cũng xảy ra càng ngày càng nhiều hơn. tranh chấp mang trí tuệ là một mẫu tranh chấp dân sự hoặc tranh chấp thương mại cụ thể, do đó việc giải quyết dòng mâu thuẫn này dựa trên hạ tầng nguyên tắc, lớp lang, hồ sơ được quy định chung trong Bộ luật tố tụng dân sự. ngoài ra, đây là dòng tranh chấp đặc trưng xuất phát trong khoảng thuộc tính vô hình của những đối tượng mang trí tuệ; hơn nữa đây lại là chiếc tranh chấp còn tương đối mới mẻ. thực tế cũng chỉ ra rằng, việc giải quyết các tranh chấp về quyền với trí óc gặp phần đông cạnh tranh. Trong đa dạng cỗi nguồn dẫn đến khó khăn, gặp trắc trở trong giai đoạn khắc phục dòng tranh chấp này, cơ sở pháp lý chưa hoàn thiện cũng là duyên cớ căn bản.
Bài viết này nói tới những trở ngại pháp lý cơ bản, quan yếu trong qúa trình giải quyết mâu thuẫn về quyền có trí tụê theo giấy tờ tố tụng dân sự, ngoài ra lại chưa được quy định hoặc quy định chưa rõ, chưa hầu hết trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 và các văn bản luật pháp can dự.
một. Thẩm quyền giải quyết mâu thuẫn sở hữu trí tuệ (https://medium.com/@congtyluathado/gi%E1%BA%A3i-quy%E1%BA%BFt-tranh-ch%E1%BA%A5p-s%E1%BB%9F-h%E1%BB%AFu-tr%C3%AD-tu%E1%BB%87-ac437cdfe822?sk=27afd432d3d0e6f17cc7acf7af6a013d)
Trong ba mẫu giải pháp được ứng dụng để khắc phục các tranh chấp về quyền sở hữu trí óc, ranh con giới giữa biện pháp hình sự và hai giải pháp còn lại là biện pháp dân sự và giải pháp hành chính hơi rõ ràng.[1] thông thường, hành vi xâm phạm quyền tác nhái, quyền sở hữu công nghiệp bị xử lý hình sự ví như trước đó đã bị xử lý hành chính. trong khi đấy, ranh mãnh giới giữa giải pháp dân sự và biện pháp hành chính lại chưa thật sự rõ ràng, đặc thù vấn đề các tranh chấp nào được khắc phục theo hồ sơ tố tụng dân sự và các mâu thuẫn nào được giải quyết bằng “con đường” hành chính. Hệ quả là, phổ quát mâu thuẫn về quyền với trí óc lẽ ra phải được khắc phục theo thủ tụng tố tụng dân sự nhưng lại khắc phục theo giấy má hành chính. Theo Báo cáo, trong các năm qua, tất cả các mâu thuẫn về quyền sở hữu trí tuệ được giải quyết bằng biện pháp hành chính. ko ít người lo ngại rằng, việc giải quyết các mâu thuẫn về quyền mang trí óc đang bị hành chính hoá. Quy định không rõ ràng về thẩm quyền dẫn tới sự chồng chéo trong hoạt động của các cơ quan, những cơ quan thỉnh thoảng thực hành công việc ko thuộc thẩm quyền của mình, tác động đến hiệu quả thực thi quyền với trí não.
Pháp lệnh bảo hộ quyền có công nghiệp năm 1989 lần trước tiên quy định cho Toà án thẩm quyền xét xử các tranh chấp về quyền trí não mà cụ thể là quyền sở hữu công nghiệp tại Điều 29. Theo quy định của Pháp lệnh, thẩm quyền xét xử các mâu thuẫn sở hữu công nghiệp của Toà án rất hẹp. Cụ thể, Toà án chỉ mang thẩm quyền xét xử bốn loại tranh chấp và vi phạm sau: hành vi xâm phạm quyền có công nghiệp của chủ văn bằng bảo hộ; mâu thuẫn liên quan đến việc tổ chức, cá nhân được chuyển giao quyền dùng đối tượng có công nghiệp phải trả khoản tiền cho chủ văn bằng bảo hộ trong trường hợp yêu cầu chuyển giao quyền tiêu dùng đối tượng sở hưũ công nghiệp; tranh chấp can dự đến việc cấp văn bằng bảo hộ cho tổ chức, cá nhân không sở hữu quyền nộp đơn; mâu thuẫn can dự đến việc phục thù lao cho tác kém chất lượng và người thừa kế của tác giả sáng chế, biện pháp có ích, ngoại hình công nghiệp[2].
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 chỉ quy định tranh chấp về quyền mang trí tụê, chuyển giao kỹ thuật thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án (khoản 40-Điều 25, khoản 2-Điều 29). Bộ luật dân sự năm 1995 và các văn bản chỉ dẫn thi hành về quyền tác kém chất lượng và quyền với công nghiệp trong Bộ luật[3] cũng chỉ quy định: tác kém chất lượng, chủ nhân tác phẩm, tác nhái, chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp với quyền khởi kiện buộc phải cơ quan nhà nước thẩm quyền kiểm soát an ninh quyền của mình khi bị xâm hại; mâu thuẫn về quyền tác nhái, quyền với công nghiệp được khắc phục theo giấy má tố tụng dân sự[4]. Ngày 21/8/1997, Toà án quần chúng tối cao đã ban hành Công văn số 97/KHXX xác định thẩm quyền khắc phục mâu thuẫn về quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp. Tiếp ấy, ngày 5/12/2001, Toà án quần chúng vô thượng, Viện kiểm sát nhân dân vô thượng và Bộ văn hoá-thông tin đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BVHTT về giải quyết các tranh chấp can dự đến quyền tác giả tại Toà án quần chúng. ngoài ra, đông đảo các văn bản luật pháp này cũng chưa quy định rõ, phần lớn những mâu thuẫn về quyền có trí tuệ cụ thể nào thuộc thẩm quyền khắc phục của Toà án theo giấy tờ tố tụng dân sự.
Trên hạ tầng các quy định tản mác trong những văn bản pháp luật nói trên về thẩm quyền của Toà án trong việc khắc phục tranh chấp quyền tác nhái, quyền có công nghiệp và thực tiễn phát sinh, giải quyết các mâu thuẫn này, thẩm quyền theo vụ việc có thể được xác định như sau:
các tranh chấp về quyền tác giả thuộc thẩm quyền khắc phục của Toà án
- tranh chấp giữa những cá nhân, doanh nghiệp nhằm xác định tác kém chất lượng, đồng tác fake, chủ sở hữu tác phẩm;
- mâu thuẫn giữa tác nhái, đồng tác fake chẳng hề là chủ sở hữu tác phẩm và chủ sở hữu tác phẩm về các quyền nhân thân, quyền tài sản của những chủ thể này;
- mâu thuẫn về thừa kế quyền tác giả;
- mâu thuẫn nảy sinh từ giao kèo dùng tác phẩm;
- tranh chấp nảy sinh trong khoảng hiệp đồng nhà cung cấp bản quyền tác giả;
- mâu thuẫn giữa tác kém chất lượng, chủ nhân tác phẩm gốc sở hữu tác fake, chủ sở hữu tác phẩm phái sinh (tác phẩm dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, ghi chú, tuyển chọn);
- mâu thuẫn giữa tác fake, chủ sở hữu tác phẩm có các người với quyền cận kề (quyền can hệ đến quyền tác giả) là người trình diễn, công ty cung cấp băng thu thanh, ghi hình, đơn vị phát sóng;
- tranh chấp giữa các đơn vị, cá nhân với quyền can hệ tới quyền tác fake, bao gồm: người biểu diễn, tổ chức phân phối băng thu thanh, ghi hình, tổ chức phát sóng và những người khác có hành vi vi phạm quyền của họ;
- mâu thuẫn giữa tác nhái, đồng tác giả sở hữu những người với liên quan nhưng chẳng hề là tác fake, bao gồm: người sưu tầm tài liệu cho tác fake, người sản xuất vốn đầu tư và dụng cụ vật chất khác.
tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
- tranh chấp nhằm xác định người nào là tác giả, chủ nhân, người tiêu dùng hợp pháp đối tượng có công nghiệp;
- Tác fake sáng chế, giải pháp hữu ích, bề ngoài công nghiệp, kiểu dáng sắp xếp mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng khởi kiện cá nhân, đơn vị (trong đấy bao gồm cả chủ sở hữu các đối tượng này) xâm phạm quyền tác giả của mình;
- chủ sở hữu những đối tượng sở hữu công nghiệp: sáng chế, biện pháp bổ ích, ngoài mặt công nghiệp, thương hiệu hàng hoá, kiểu dáng sắp xếp mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng, tên thương nghiệp, bí ẩn kinh doanh; người sở hữu quyền dùng hợp pháp tên gọi nguồn gốc hàng hoá, hướng dẫn địa lý sở hữu khởi kiện cá nhân, công ty xâm phạm quyền sở hữu, quyền sử dụng của mình;
- chủ nhân các đối tượng với công nghiệp khởi kiện người tiêu dùng trước những đối tượng sở hữu công nghiệp này trong trường hợp người tiêu dùng trước chuyển giao quyền dùng cho người khác hoặc mở mang khối lượng, phạm vi so sở hữu ngày ban bố trong đơn;
- cá nhân, công ty khởi kiện tư nhân, đơn vị khác cản trở, tránh quyền tự do sáng tạo, quyền mang những sản phẩm trí não của mình;
- tranh chấp về thừa kế quyền sở hữu công nghiệp;
- mâu thuẫn nảy sinh trong khoảng hợp đồng chuyển giao quyền mang, quyền tiêu dùng đối tượng sở hưũ công nghiệp (còn gọi là hiệp đồng li-xăng);
- mâu thuẫn về giao kèo dịch vụ đại diện với công nghiệp;
- mâu thuẫn về quyền nộp đơn xin cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (Bằng độc quyền hoặc Giấy chứng nhận);
- tranh chấp về việc trả thù lao và những khoản phí khác giữa Cục sở hữu trí não và những chủ thể khác.
Rõ ràng, giả dụ so sánh với quy định của Pháp lệnh bảo hộ quyền mang công nghiệp năm 1989, luật pháp hiện hành đã giành cho Toà án thẩm quyền rộng hơn đông đảo trong việc xét xử các tranh chấp về quyền tác fake và quyền sở hữu công nghiệp.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (Điều 25, Điều 27, Điều 33, Điều 34), thẩm quyền giải quyết những mâu thuẫn mang trí tuệ của Toà án được xác định như sau: một.Nếu tranh chấp có trí óc thuần tuý là mâu thuẫn dân sự, thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện; 2.Nếu tranh chấp có trí não thuần tuý là tranh chấp dân sự nhưng có đương sự hoặc đối tượng với trí óc ở nước ngoài, thuộc quyền của Toà án cấp tỉnh; 3.Nếu tranh chấp mang trí tuệ giữa cá nhân, đơn vị sở hữu nhau và đều sở hữu mục đích lợi nhuận được coi là tranh chấp thương mại, buôn bán và thuộc thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh giấc.
2. Người mang quyền khởi kiện tranh chấp quyền mang trí óc
bên cạnh vấn đề thẩm quyền, cần phải quy định rõ ai mang quyền khởi kiện mâu thuẫn về quyền có trí tuệ trước Toà án theo thủ tụng tố tụng dân sự. Vấn đề bên nguyên trong vụ kiện về quyền với trí tuệ cũng chưa được quy định trong bất kỳ văn bản luật pháp nào. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 chỉ quy định “Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được tư nhân, cơ quan, đơn vị khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để buộc phải Toà án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người ấy bị xâm phạm. Cơ quan, đơn vị do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án kiểm soát an ninh lợi ích công cùng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên đơn”. bên nguyên với các quyền, trách nhiệm được quy định tại khoản một, Điều 59-Bộ luật tố tụng dân sự.
Do luật pháp ko quy định người nào với quyền khởi kiện tranh chấp về quyền có trí tuệ, dẫn tới trong thực tế người có quyền khởi kiện thỉnh thoảng bỏ mất quyền khởi kiện hoặc người không sở hữu quyền khởi kiện lại khởi kiện nên không được Toà án giải quyết.
bên nguyên trong vụ án về quyền mang trí não sở hữu thể là tác nhái, chủ nhân đối tượng với trí tuệ hoặc một số người sở hữu quyền can hệ khác. Cụ thể như sau:
Đối với các mâu thuẫn về quyền tác kém chất lượng, những người sau đây có quyền khởi kiện:
- Tác nhái song song là chủ nhân tác phẩm;
- Tác kém chất lượng ko đồng thời là chủ nhân tác phẩm;
- chủ nhân tác phẩm không cùng lúc là tác giả;
- Người được thừa kế của tác nhái song song là chủ sở hữu tác phẩm;
- Người với quyền liên quan đến quyền tác fake, bao gồm: người biểu diễn; tổ chức sản xuất băng âm thanh, băng hình; tổ chức phát sóng;
- Người sở hữu quyền tiêu dùng hợp pháp tác phẩm duyệt y giao kèo tiêu dùng tác phẩm;
- công ty, cá nhân được các chủ thể trên uỷ quyền theo quy định của luật pháp.
Đối sở hữu tranh chấp về quyền với công nghiệp, các người sau đây với quyền khởi kiện:
- Tác giả sáng chế, giải pháp bổ ích, mẫu mã công nghiệp, kiểu dáng xếp đặt mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng.
- chủ sở hữu sáng chế, biện pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng, thương hiệu hàng hoá, tên thương nghiệp, bí hiểm buôn bán.
- Người dùng hợp pháp tên gọi cội nguồn hàng hoá, hướng dẫn địa lý.
- Người được thừa kế quyền có công nghiệp.
- Người mang quyền tiêu dùng hợp pháp những đối tượng có công nghiệp thông qua hiệp đồng li-xăng.
- Người biểu diễn; công ty, cá nhân sản xuất băng ghi âm, ghi hình; đơn vị phát thanh, truyền hình.
- công ty, cá nhân được những chủ thể trên uỷ quyền theo quy định của pháp luật.
khi xác định bên nguyên trong trong chấp về quyền sở hữu trí óc, cần lưu ý: Đối có quyền tác fake, quyền khởi kiện buộc phải bảo hộ quyền tác fake nảy sinh trong khoảng thời khắc cá nhân sáng tạo ra tác phẩm và mô tả sự thông minh đấy dưới 1 hình thức vật chất cố định. nghĩa là, nếu như 1 người có ý tưởng sáng tạo tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, nhưng chưa miêu tả ý tưởng này dưới bất kỳ hình thức nào như: giấy, gỗ, vải… thì không thể khởi kiện đề xuất Nhà nước bảo vệ quyền của mình đối sở hữu ý tưởng. Hơn nữa, trong trường hợp tác kém chất lượng, chủ nhân tác phẩm khởi kiện cá nhân, doanh nghiệp xâm phạm quyền của họ (trừ các quyền nhân thân quy định tại điểm a, b, đ-khoản 1-Điều 751-Bộ luật dân sự), việc khởi kiện chỉ được chấp thuận trong thời hạn tác phẩm được bảo hộ. Thời hạn đấy là suốt thế cục tác nhái và 50 năm sau khi tác nhái chết. Đối mang quyền với công nghiệp, giả dụ tác giả, chủ sở hữu, người dùng hợp pháp đối tượng với công nghiệp khởi kiện tổ chức, cá nhân khác xâm phạm quyền của mình phải là người đã được cấp Văn bằng bảo hộ cho đối tượng với công nghiệp đó; và hành vi vi phạm xảy ra trong thời hạn bảo hộ.
3. bằng cớ
khi giải quyết tranh chấp về quyền có trí não, cũng như đối với các vụ án dân sự khác, “đương sự sở hữu đề xuất Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra bằng cớ để chứng minh cho bắt buộc ấy là mang căn cứ và hợp pháp. Đương sự phản đối buộc phải của người khác đối sở hữu mình phải chứng minh sự phản đối ấy là sở hữu căn cứ và phải đưa ra bằng cớ để chứng minh” (Điều 79-Bộ luật tố tụng dân sự). bên cạnh đó, việc chứng minh trong vụ án về quyền sở hữu trí óc thường khó khăn hơn đầy đủ so sở hữu các vụ án dân sự khác.
Theo quy định tại Điều 82-Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, pháp luật thừa nhận chín nguồn bằng cớ mà đương sự được tiêu dùng để đảm bảo trách nhiệm chứng minh của mình. Ngoài quy định chung này trong Bộ luật tố tụng dân sự, không với bất kỳ 1 văn bản luật pháp nào quy định về bằng chứng trong giai đoạn giải quyết mâu thuẫn về quyền sở hữu trí tuệ[5].
Trong các chiếc bằng cớ được quy định tại Điều 82-Bộ luật tố tụng dân sự, các nguồn sau đây với thể được sử dụng lúc giải quyết mâu thuẫn về quyền với trí tuệ: các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được; những vật chứng; lời khai của đương sự; lời khai của ngừoi làm chứng; kết luận giám định; kết quả định giá tài sản. Tuỳ từng dòng mâu thuẫn cụ thể mà chứng cớ được sử dụng khác nhau, đương sự mang thể đưa ra 1 hoặc một số loại bằng cớ.
Đối mang tranh chấp về quyền tác kém chất lượng, các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được mang trị giá là bằng chứng bao gồm:
- Giấy chứng nhận bản quyền tác nhái do Cục bản quyền thuộc Bộ Văn hoá-thông tin cấp. Giấy chứng nhận bản quyền tác kém chất lượng là chứng cứ để chứng minh người có tên trong Giấy này là tác nhái của tác phẩm. Trong trường hợp đương sự không khiến thủ tục đăng ký tại Cục bản quyền tác kém chất lượng, nếu như muốn chứng minh là tác nhái, đương sự phải chứng minh mình đã sáng tạo ra tác phẩm và sự sáng tạo đó đã được định hình dưới một hình thức vật chất;
- các tác phẩm văn chương, nghệ thuật, khoa học bộc lộ dưới hình thức: bài báo, sách, tạp chí, băng, đĩa âm thanh, băng, đĩa hình… có nội dung vi phạm tác phẩm đã được bảo hộ;
- giao kèo thuê sáng tạo; hợp đồng lao đồng và văn bản giao việc trong trường hợp chứng minh tư nhân, tổ chức là chủ nhân tác phẩm;
- di chúc hợp pháp, bản án, quyết định của Toà án về việc chia di sản thừa kế trong trường hợp khắc phục mâu thuẫn nảy sinh trong khoảng thừa kế quyền tác giả;
- giao kèo dùng tác phẩm trong trường hợp giải quyết tranh chấp về giao kèo tiêu dùng tác phẩm;
- hiệp đồng dịch vụ bản quyền tác giả trong trường hợp giải quyết mâu thuẫn về hiệp đồng nhà sản xuất bản quyền tác giả;
- hợp đồng thuê trình diễn nghệ thuật, hợp đồng công ty phân phối chương trình văn hoá, nghệ thuật; hợp đồng cung cấp, phát hành băng ghi âm, ghi hình; hiệp đồng trong ngành nghề phát thanh, truyền hình trong trường hợp khắc phục mâu thuẫn phát sinh trong khoảng các quan hệ này;
- Hoá đơn trả tiền thù lao, nhuận bút trong trường hợp khắc phục mâu thuẫn can hệ đến quyền hưởng các khoản này của tác kém chất lượng.
Đối có mâu thuẫn về quyền với công nghiệp, những tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được sở hữu trị giá là bằng chứng bao gồm:
- Văn bằng bảo hộ đối tượng có công nghiệp được dùng để chứng minh người với tên trong văn bằng là tác kém chất lượng, chủ sở hữu đối tượng có công nghiệp. Cụ thể là Bằng độc quyền sáng chế, biện pháp bổ ích, mẫu mã công nghiệp. Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, Giấy chứng nhận quyền tiêu dùng tên gọi nguồn cội hàng hoá, Giấy chứng thực đăng ký mẫu mã sắp đặt mạch tích hợp bán dẫn, Bằng bảo hộ giống cây trồng mới;
- giao kèo thuê sáng tạo; hiệp đồng lao đồng và văn bản giao việc trong trường hợp chứng minh là chủ nhân đối tượng mang công nghiệp trong trường hợp chứng minh người nào là tác fake, chủ nhân đối tượng có công nghiệp;
- chúc thư hợp pháp, bản án, quyết định của Toà án về việc chia di sản thừa kế trong trường hợp giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền sở hữu công nghiệp;
- giao kèo chuyển giao quyền sở hữu đối tượng có công nghiệp, giao kèo li-xăng trong trường hợp giải quyết tranh chấp phát sinh từ những hợp đồng này;
- hợp đồng dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp trong trường hợp giải quyết mâu thuẫn phát sinh trong khoảng hiệp đồng này;
- Đơn và các hồ sơ khác chứng minh đã nộp đơn;
- các hiệp đồng, thủ tục khác về việc mua bán, gửi giữ, quảng cáo, xuất khẩu, nhập cảng hàng hoá/dịch vụ mang gắn đối tượng với công nghiệp đã được bảo hộ trong trường hợp chứng minh hành vi vi phạm quyền với công nghiệp;
- các hoá đơn, chứng từ hợp lệ;
- Danh mục nhãn hàng hàng hoá nổi danh trong trường hợp chứng minh nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại giống hoặc như vậy có thương hiệu hàng hoá nức danh.
bên cạnh đó, 1 số tang vật cũng sở hữu thể được dùng. Ví dụ: Hàng hoá gắn đối tượng sở hữu công nghiệp đã được bảo hộ; hàng hoá gắn đối tượng có công nghiệp bị coi là vi phạm; những khoản thu lợi bất chính…
4. giám định
Vấn đề thẩm định thường được đặt ra trong trường hợp đối tượng có trí tuệ đang tranh chấp là đối tượng phức tạp. Theo Điều 90 – Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, thẩm phán ra quyết định trưng cầu đánh giá theo sự thoả thuận lựa chọn của các đối tác đương sự hoặc theo yêu cầu của 1 hoặc các bên đương sự. Kết luận giám định là 1 nguồn chứng cớ quan trọng. bên cạnh đó, Điều 67 – Bộ luật tố tụng dân sự về người giám định chỉ quy định chung chung “Người thẩm định là người sở hữu kiến thức, kinh nghiệm cần phải có theo quy định của ngành nghề với đối tượng cần giám định”. đến giờ, trong ngành nghề sở hưũ trí não, chưa sở hữu quy định cụ thể cơ quan nào sở hữu thẩm quyền thẩm định, trình tự, giấy tờ giám định ra sao. Trong thực tiễn, thẩm quyền đánh giá đối tượng với trí tuệ thuộc về Cục với trí tuệ, khi mà ấy đây lại là một cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu công nghiệp.
Nên quy định 1 cơ quan độc lập mang thẩm quyền đánh giá đối tượng với trí não, hành vi xâm phạm quyền mang trí óc. Đối sở hữu quyền tác nhái, đấy là cơ quan độc lập thuộc Bộ văn hoá-thông tin, còn đối sở hữu quyền có công nghiệp, ấy là cơ quan thuộc Bộ khoa học-công nghệ.
5. Xác định mức bồi hoàn
giấy má tố tụng dân sự cho phép tác nhái, chủ sở hữu của tác phẩm văn học, nghệ thuật, công nghệ và tác kém chất lượng, chủ nhân những đối tượng với công nghiệp cũng như những chủ thể có quyền liên quan khác được quyền khởi kiện đề nghị Toà án công nhận quyền của mình; buộc người sở hữu hành vi xâm phạm quyền tác nhái, quyền mang công nghiệp chấm dứt hành vi xâm phạm; đề nghị người có hành vi xâm phạm; và buộc người sở hữu hành vi xâm phạm phải bồi hoàn thiệt hại. tuy nhiên, luật pháp Việt Nam chưa quy định cụ thể về bí quyết xác định thiệt hại, mức bồi hoàn thiệt hại trong trường hợp quyền mang trí não bị xâm hại. nếu như chỉ căn cứ vào những quy định về “Trách nhiệm bồi hoàn thiệt hại ngoài hợp đồng” tại chương 5, phần thứ ba của Bộ luật dân sự sẽ ko thoả đáng lúc giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại do đối tượng với trí não bị xâm phạm. Hơn nữa, theo nguyên tắc, nguyên đơn sở hữu trách nhiệm chứng minh mức độ thiệt hại thực tại và thiệt hại tiềm tàng của mình do hành vi xâm phạm quyền mang công nghiệp gây ra. tuy nhiên, để chứng minh được điều này là điều ko thuần tuý có bên nguyên.
ngày nay, các Toà án rất lúng túng trong việc giải quyết vấn đề đền bù thiệt hại cho bên nguyên. Trong phần nhiều các vụ việc, việc xác định mức bồi hoàn cho nguyên đơn là không thoả đáng, vì thế không kiểm soát an ninh được hưởng ích chính đáng của họ. Về vấn đề này cần được xác định rõ trong Luật có trí óc đang được vun đắp, hoặc chỉ dẫn xét xử của Toà án dân chúng vô thượng.
Theo chúng tôi, nên quy định: Thứ nhất, mức đền bù được xác định trên hạ tầng tổn thất thực tiễn mà tác kém chất lượng, chủ sở hữu, người mang quyền sử dụng hợp pháp đối tượng mang trí óc phải gánh chịu do hành vi xâm phạm quyền mang trí óc. Thứ 2, thiệt hại bao gồm: Thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Thiệt hại về vật chất bao gồm: tổn thất về tài sản, mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, giá tiền hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, tầm giá hợp lý để thuê luật sư, tổn thất về cơ hội kinh doanh. Thiệt hại về tinh thần bao gồm: tổn thất về danh dự, phẩm giá, uy tín, tăm tiếng và các tổn thất khác về ý thức.
6. Kết luận
Rõ ràng, cơ sở vật chất pháp lý cho việc khắc phục mâu thuẫn về quyền mang trí tuệ theo hồ sơ tố tụng dân sự chưa cụ thể, chưa phần lớn. Điều này gây khó khăn cho các cơ quan giải quyết mâu thuẫn và cho cả đương sự, khiến cho hiệu quả thực thi quyền có trí tuệ ở nước ta không cao. thành ra, việc hoàn thiện cơ sở vật chất pháp lý cho việc thực thi quyền mang trí tuệ khái quát và giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí óc theo hồ sơ tố tụng dân sự đề cập riêng khôn xiết cần thiết.
Để bảo đảm khắc phục tốt hơn mâu thuẫn về quyền mang trí tuệ theo thủ tụng tố tụng dân sự, cần phải quy định cụ thể hơn về những vấn đề: một. các mâu thuẫn về quyền với trí tuệ thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án; hai. những tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện mâu thuẫn về quyền với trí óc trước Toà án; 3. những chứng cớ đương sự được sử dụng trong thời kỳ chứng minh; 4. Cơ quan sở hữu thẩm quyền giám định và lớp lang, thủ tục giám định; 5. Nguyên tắc bồi thường và xác định mức định đền bù khi quyền mang trí tuệ bị xâm phạm.
Nhằm hoàn thiện những quy định pháp luật tố tụng dân sự về giải quyết tranh chấp quyền tác fake và quyền sở hữu công nghiệp, theo chúng tôi: không nên bổ sung các quy định về những khó khăn được phân tích trên đây vào Bộ luật tố tụng dân sự mà nên theo hướng quy định trong những văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật tố tụng dân sự và đặc thù là văn bản hướng dẫn xét xử của Toà án nhân dân tối cao (bên cạnh ấy, cũng nên quy định trong văn bản luật pháp nội dung là Luật có trí tuệ). Bởi vì, Bộ luật tố tụng dân sự là cơ sở vật chất pháp lý quan trọng nhất trong việc khắc phục các vụ việc dân sự. Bộ luật chỉ quy định chung về nguyên tắc, lớp lang, giấy tờ, quyền, phận sự của các chủ thể trong quá trình khắc phục vụ việc dân sự mà ko quy định cụ thể cho từng vụ án, việc dân sự.
cùng lúc sở hữu việc hoàn thiện các quy định luật pháp, thiết yếu phải nâng cao trình độ của các thẩm phán chuyên trách về lĩnh vực với trí óc. Điều này góp phần nâng cao quả giải quyết tranh chấp và làm nâng cao độ tin cậy của các đương sự trong tranh chấp về quyền có trí tuệ./.
[1] Để bảo vệ quyền tác kém chất lượng, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định 2 tội: tội xâm phạm quyền tác fake (Điều 131) và tội vi phạm những quy định về xuất bản, phát hành sách, báo, đĩa âm thanh, băng âm thanh, đĩa hình, băng hình hoặc những ấn phẩm khác (Điều 271). Để bảo vệ quyền có trí óc, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định các tội: 1. Tội phân phối, buôn bán hàng kém chất lượng (Điều 156); Tội phân phối, buôn bán hàng fake là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 157); Tội cung ứng, kinh doanh hàng nhái là thức ăn tiêu dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng vật nuôi (Điều 158); Tội lừa dối các bạn (Điều 162); Tội xâm phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền mang công nghiệp (Điều 170); Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171).
[2] Xem khoản 3-Điều 9; khoản 2-Điều 14; khoản hai và khoản 3-Điều 28 của Pháp lệnh bảo hộ quyền mang công nghiệp năm 1989.
[3] Nghị định 76-CP ngày 29/11/1996 của Chính Phủ chỉ dẫn thi hành một số quy định về quyền tác fake trong Bộ luật dân sự, Nghị định 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính Phủ quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp chỉ quy định
4. Xem Điều 759– Bộ luật dân sự; điểm c-khoản một, Điều 796– Bộ luật dân sự; điểm c-khoản 1-Điều 800–Bộ luật dân sự; Điều 7- Nghị định 76/CP; Điều 54-Nghị định 63/CP.
5. Dự thảo Luật sở hữu trí tuệ cũng quy định về bằng chứng mà đương sự mang quyền sử dụng trong giai đoạn giải quyết mâu thuẫn về quyền với trí não. bên cạnh đó, đây vẫn là quy định sơ lược.
Bài viết này nói tới những trở ngại pháp lý cơ bản, quan yếu trong qúa trình giải quyết mâu thuẫn về quyền có trí tụê theo giấy tờ tố tụng dân sự, ngoài ra lại chưa được quy định hoặc quy định chưa rõ, chưa hầu hết trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 và các văn bản luật pháp can dự.
một. Thẩm quyền giải quyết mâu thuẫn sở hữu trí tuệ (https://medium.com/@congtyluathado/gi%E1%BA%A3i-quy%E1%BA%BFt-tranh-ch%E1%BA%A5p-s%E1%BB%9F-h%E1%BB%AFu-tr%C3%AD-tu%E1%BB%87-ac437cdfe822?sk=27afd432d3d0e6f17cc7acf7af6a013d)
Trong ba mẫu giải pháp được ứng dụng để khắc phục các tranh chấp về quyền sở hữu trí óc, ranh con giới giữa biện pháp hình sự và hai giải pháp còn lại là biện pháp dân sự và giải pháp hành chính hơi rõ ràng.[1] thông thường, hành vi xâm phạm quyền tác nhái, quyền sở hữu công nghiệp bị xử lý hình sự ví như trước đó đã bị xử lý hành chính. trong khi đấy, ranh mãnh giới giữa giải pháp dân sự và biện pháp hành chính lại chưa thật sự rõ ràng, đặc thù vấn đề các tranh chấp nào được khắc phục theo hồ sơ tố tụng dân sự và các mâu thuẫn nào được giải quyết bằng “con đường” hành chính. Hệ quả là, phổ quát mâu thuẫn về quyền với trí óc lẽ ra phải được khắc phục theo thủ tụng tố tụng dân sự nhưng lại khắc phục theo giấy má hành chính. Theo Báo cáo, trong các năm qua, tất cả các mâu thuẫn về quyền sở hữu trí tuệ được giải quyết bằng biện pháp hành chính. ko ít người lo ngại rằng, việc giải quyết các mâu thuẫn về quyền mang trí óc đang bị hành chính hoá. Quy định không rõ ràng về thẩm quyền dẫn tới sự chồng chéo trong hoạt động của các cơ quan, những cơ quan thỉnh thoảng thực hành công việc ko thuộc thẩm quyền của mình, tác động đến hiệu quả thực thi quyền với trí não.
Pháp lệnh bảo hộ quyền có công nghiệp năm 1989 lần trước tiên quy định cho Toà án thẩm quyền xét xử các tranh chấp về quyền trí não mà cụ thể là quyền sở hữu công nghiệp tại Điều 29. Theo quy định của Pháp lệnh, thẩm quyền xét xử các mâu thuẫn sở hữu công nghiệp của Toà án rất hẹp. Cụ thể, Toà án chỉ mang thẩm quyền xét xử bốn loại tranh chấp và vi phạm sau: hành vi xâm phạm quyền có công nghiệp của chủ văn bằng bảo hộ; mâu thuẫn liên quan đến việc tổ chức, cá nhân được chuyển giao quyền dùng đối tượng có công nghiệp phải trả khoản tiền cho chủ văn bằng bảo hộ trong trường hợp yêu cầu chuyển giao quyền tiêu dùng đối tượng sở hưũ công nghiệp; tranh chấp can dự đến việc cấp văn bằng bảo hộ cho tổ chức, cá nhân không sở hữu quyền nộp đơn; mâu thuẫn can dự đến việc phục thù lao cho tác kém chất lượng và người thừa kế của tác giả sáng chế, biện pháp có ích, ngoại hình công nghiệp[2].
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 chỉ quy định tranh chấp về quyền mang trí tụê, chuyển giao kỹ thuật thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án (khoản 40-Điều 25, khoản 2-Điều 29). Bộ luật dân sự năm 1995 và các văn bản chỉ dẫn thi hành về quyền tác kém chất lượng và quyền với công nghiệp trong Bộ luật[3] cũng chỉ quy định: tác kém chất lượng, chủ nhân tác phẩm, tác nhái, chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp với quyền khởi kiện buộc phải cơ quan nhà nước thẩm quyền kiểm soát an ninh quyền của mình khi bị xâm hại; mâu thuẫn về quyền tác nhái, quyền với công nghiệp được khắc phục theo giấy má tố tụng dân sự[4]. Ngày 21/8/1997, Toà án quần chúng tối cao đã ban hành Công văn số 97/KHXX xác định thẩm quyền khắc phục mâu thuẫn về quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp. Tiếp ấy, ngày 5/12/2001, Toà án quần chúng vô thượng, Viện kiểm sát nhân dân vô thượng và Bộ văn hoá-thông tin đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BVHTT về giải quyết các tranh chấp can dự đến quyền tác giả tại Toà án quần chúng. ngoài ra, đông đảo các văn bản luật pháp này cũng chưa quy định rõ, phần lớn những mâu thuẫn về quyền có trí tuệ cụ thể nào thuộc thẩm quyền khắc phục của Toà án theo giấy tờ tố tụng dân sự.
Trên hạ tầng các quy định tản mác trong những văn bản pháp luật nói trên về thẩm quyền của Toà án trong việc khắc phục tranh chấp quyền tác nhái, quyền có công nghiệp và thực tiễn phát sinh, giải quyết các mâu thuẫn này, thẩm quyền theo vụ việc có thể được xác định như sau:
các tranh chấp về quyền tác giả thuộc thẩm quyền khắc phục của Toà án
- tranh chấp giữa những cá nhân, doanh nghiệp nhằm xác định tác kém chất lượng, đồng tác fake, chủ sở hữu tác phẩm;
- mâu thuẫn giữa tác nhái, đồng tác fake chẳng hề là chủ sở hữu tác phẩm và chủ sở hữu tác phẩm về các quyền nhân thân, quyền tài sản của những chủ thể này;
- mâu thuẫn về thừa kế quyền tác giả;
- mâu thuẫn nảy sinh từ giao kèo dùng tác phẩm;
- tranh chấp nảy sinh trong khoảng hiệp đồng nhà cung cấp bản quyền tác giả;
- mâu thuẫn giữa tác kém chất lượng, chủ nhân tác phẩm gốc sở hữu tác fake, chủ sở hữu tác phẩm phái sinh (tác phẩm dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, ghi chú, tuyển chọn);
- mâu thuẫn giữa tác fake, chủ sở hữu tác phẩm có các người với quyền cận kề (quyền can hệ đến quyền tác giả) là người trình diễn, công ty cung cấp băng thu thanh, ghi hình, đơn vị phát sóng;
- tranh chấp giữa các đơn vị, cá nhân với quyền can hệ tới quyền tác fake, bao gồm: người biểu diễn, tổ chức phân phối băng thu thanh, ghi hình, tổ chức phát sóng và những người khác có hành vi vi phạm quyền của họ;
- mâu thuẫn giữa tác nhái, đồng tác giả sở hữu những người với liên quan nhưng chẳng hề là tác fake, bao gồm: người sưu tầm tài liệu cho tác fake, người sản xuất vốn đầu tư và dụng cụ vật chất khác.
tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
- tranh chấp nhằm xác định người nào là tác giả, chủ nhân, người tiêu dùng hợp pháp đối tượng có công nghiệp;
- Tác fake sáng chế, giải pháp hữu ích, bề ngoài công nghiệp, kiểu dáng sắp xếp mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng khởi kiện cá nhân, đơn vị (trong đấy bao gồm cả chủ sở hữu các đối tượng này) xâm phạm quyền tác giả của mình;
- chủ sở hữu những đối tượng sở hữu công nghiệp: sáng chế, biện pháp bổ ích, ngoài mặt công nghiệp, thương hiệu hàng hoá, kiểu dáng sắp xếp mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng, tên thương nghiệp, bí ẩn kinh doanh; người sở hữu quyền dùng hợp pháp tên gọi nguồn gốc hàng hoá, hướng dẫn địa lý sở hữu khởi kiện cá nhân, công ty xâm phạm quyền sở hữu, quyền sử dụng của mình;
- chủ nhân các đối tượng với công nghiệp khởi kiện người tiêu dùng trước những đối tượng sở hữu công nghiệp này trong trường hợp người tiêu dùng trước chuyển giao quyền dùng cho người khác hoặc mở mang khối lượng, phạm vi so sở hữu ngày ban bố trong đơn;
- cá nhân, công ty khởi kiện tư nhân, đơn vị khác cản trở, tránh quyền tự do sáng tạo, quyền mang những sản phẩm trí não của mình;
- tranh chấp về thừa kế quyền sở hữu công nghiệp;
- mâu thuẫn nảy sinh trong khoảng hợp đồng chuyển giao quyền mang, quyền tiêu dùng đối tượng sở hưũ công nghiệp (còn gọi là hiệp đồng li-xăng);
- mâu thuẫn về giao kèo dịch vụ đại diện với công nghiệp;
- mâu thuẫn về quyền nộp đơn xin cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (Bằng độc quyền hoặc Giấy chứng nhận);
- tranh chấp về việc trả thù lao và những khoản phí khác giữa Cục sở hữu trí não và những chủ thể khác.
Rõ ràng, giả dụ so sánh với quy định của Pháp lệnh bảo hộ quyền mang công nghiệp năm 1989, luật pháp hiện hành đã giành cho Toà án thẩm quyền rộng hơn đông đảo trong việc xét xử các tranh chấp về quyền tác fake và quyền sở hữu công nghiệp.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (Điều 25, Điều 27, Điều 33, Điều 34), thẩm quyền giải quyết những mâu thuẫn mang trí tuệ của Toà án được xác định như sau: một.Nếu tranh chấp có trí óc thuần tuý là mâu thuẫn dân sự, thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện; 2.Nếu tranh chấp có trí não thuần tuý là tranh chấp dân sự nhưng có đương sự hoặc đối tượng với trí óc ở nước ngoài, thuộc quyền của Toà án cấp tỉnh; 3.Nếu tranh chấp mang trí tuệ giữa cá nhân, đơn vị sở hữu nhau và đều sở hữu mục đích lợi nhuận được coi là tranh chấp thương mại, buôn bán và thuộc thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh giấc.
2. Người mang quyền khởi kiện tranh chấp quyền mang trí óc
bên cạnh vấn đề thẩm quyền, cần phải quy định rõ ai mang quyền khởi kiện mâu thuẫn về quyền có trí tuệ trước Toà án theo thủ tụng tố tụng dân sự. Vấn đề bên nguyên trong vụ kiện về quyền với trí tuệ cũng chưa được quy định trong bất kỳ văn bản luật pháp nào. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 chỉ quy định “Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được tư nhân, cơ quan, đơn vị khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để buộc phải Toà án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người ấy bị xâm phạm. Cơ quan, đơn vị do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án kiểm soát an ninh lợi ích công cùng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên đơn”. bên nguyên với các quyền, trách nhiệm được quy định tại khoản một, Điều 59-Bộ luật tố tụng dân sự.
Do luật pháp ko quy định người nào với quyền khởi kiện tranh chấp về quyền có trí tuệ, dẫn tới trong thực tế người có quyền khởi kiện thỉnh thoảng bỏ mất quyền khởi kiện hoặc người không sở hữu quyền khởi kiện lại khởi kiện nên không được Toà án giải quyết.
bên nguyên trong vụ án về quyền mang trí não sở hữu thể là tác nhái, chủ nhân đối tượng với trí tuệ hoặc một số người sở hữu quyền can hệ khác. Cụ thể như sau:
Đối với các mâu thuẫn về quyền tác kém chất lượng, những người sau đây có quyền khởi kiện:
- Tác nhái song song là chủ nhân tác phẩm;
- Tác kém chất lượng ko đồng thời là chủ nhân tác phẩm;
- chủ nhân tác phẩm không cùng lúc là tác giả;
- Người được thừa kế của tác nhái song song là chủ sở hữu tác phẩm;
- Người với quyền liên quan đến quyền tác fake, bao gồm: người biểu diễn; tổ chức sản xuất băng âm thanh, băng hình; tổ chức phát sóng;
- Người sở hữu quyền tiêu dùng hợp pháp tác phẩm duyệt y giao kèo tiêu dùng tác phẩm;
- công ty, cá nhân được các chủ thể trên uỷ quyền theo quy định của luật pháp.
Đối sở hữu tranh chấp về quyền với công nghiệp, các người sau đây với quyền khởi kiện:
- Tác giả sáng chế, giải pháp bổ ích, mẫu mã công nghiệp, kiểu dáng xếp đặt mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng.
- chủ sở hữu sáng chế, biện pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng, thương hiệu hàng hoá, tên thương nghiệp, bí hiểm buôn bán.
- Người dùng hợp pháp tên gọi cội nguồn hàng hoá, hướng dẫn địa lý.
- Người được thừa kế quyền có công nghiệp.
- Người mang quyền tiêu dùng hợp pháp những đối tượng có công nghiệp thông qua hiệp đồng li-xăng.
- Người biểu diễn; công ty, cá nhân sản xuất băng ghi âm, ghi hình; đơn vị phát thanh, truyền hình.
- công ty, cá nhân được những chủ thể trên uỷ quyền theo quy định của pháp luật.
khi xác định bên nguyên trong trong chấp về quyền sở hữu trí óc, cần lưu ý: Đối có quyền tác fake, quyền khởi kiện buộc phải bảo hộ quyền tác fake nảy sinh trong khoảng thời khắc cá nhân sáng tạo ra tác phẩm và mô tả sự thông minh đấy dưới 1 hình thức vật chất cố định. nghĩa là, nếu như 1 người có ý tưởng sáng tạo tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, nhưng chưa miêu tả ý tưởng này dưới bất kỳ hình thức nào như: giấy, gỗ, vải… thì không thể khởi kiện đề xuất Nhà nước bảo vệ quyền của mình đối sở hữu ý tưởng. Hơn nữa, trong trường hợp tác kém chất lượng, chủ nhân tác phẩm khởi kiện cá nhân, doanh nghiệp xâm phạm quyền của họ (trừ các quyền nhân thân quy định tại điểm a, b, đ-khoản 1-Điều 751-Bộ luật dân sự), việc khởi kiện chỉ được chấp thuận trong thời hạn tác phẩm được bảo hộ. Thời hạn đấy là suốt thế cục tác nhái và 50 năm sau khi tác nhái chết. Đối mang quyền với công nghiệp, giả dụ tác giả, chủ sở hữu, người dùng hợp pháp đối tượng với công nghiệp khởi kiện tổ chức, cá nhân khác xâm phạm quyền của mình phải là người đã được cấp Văn bằng bảo hộ cho đối tượng với công nghiệp đó; và hành vi vi phạm xảy ra trong thời hạn bảo hộ.
3. bằng cớ
khi giải quyết tranh chấp về quyền có trí não, cũng như đối với các vụ án dân sự khác, “đương sự sở hữu đề xuất Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra bằng cớ để chứng minh cho bắt buộc ấy là mang căn cứ và hợp pháp. Đương sự phản đối buộc phải của người khác đối sở hữu mình phải chứng minh sự phản đối ấy là sở hữu căn cứ và phải đưa ra bằng cớ để chứng minh” (Điều 79-Bộ luật tố tụng dân sự). bên cạnh đó, việc chứng minh trong vụ án về quyền sở hữu trí óc thường khó khăn hơn đầy đủ so sở hữu các vụ án dân sự khác.
Theo quy định tại Điều 82-Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, pháp luật thừa nhận chín nguồn bằng cớ mà đương sự được tiêu dùng để đảm bảo trách nhiệm chứng minh của mình. Ngoài quy định chung này trong Bộ luật tố tụng dân sự, không với bất kỳ 1 văn bản luật pháp nào quy định về bằng chứng trong giai đoạn giải quyết mâu thuẫn về quyền sở hữu trí tuệ[5].
Trong các chiếc bằng cớ được quy định tại Điều 82-Bộ luật tố tụng dân sự, các nguồn sau đây với thể được sử dụng lúc giải quyết mâu thuẫn về quyền với trí tuệ: các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được; những vật chứng; lời khai của đương sự; lời khai của ngừoi làm chứng; kết luận giám định; kết quả định giá tài sản. Tuỳ từng dòng mâu thuẫn cụ thể mà chứng cớ được sử dụng khác nhau, đương sự mang thể đưa ra 1 hoặc một số loại bằng cớ.
Đối mang tranh chấp về quyền tác kém chất lượng, các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được mang trị giá là bằng chứng bao gồm:
- Giấy chứng nhận bản quyền tác nhái do Cục bản quyền thuộc Bộ Văn hoá-thông tin cấp. Giấy chứng nhận bản quyền tác kém chất lượng là chứng cứ để chứng minh người có tên trong Giấy này là tác nhái của tác phẩm. Trong trường hợp đương sự không khiến thủ tục đăng ký tại Cục bản quyền tác kém chất lượng, nếu như muốn chứng minh là tác nhái, đương sự phải chứng minh mình đã sáng tạo ra tác phẩm và sự sáng tạo đó đã được định hình dưới một hình thức vật chất;
- các tác phẩm văn chương, nghệ thuật, khoa học bộc lộ dưới hình thức: bài báo, sách, tạp chí, băng, đĩa âm thanh, băng, đĩa hình… có nội dung vi phạm tác phẩm đã được bảo hộ;
- giao kèo thuê sáng tạo; hợp đồng lao đồng và văn bản giao việc trong trường hợp chứng minh tư nhân, tổ chức là chủ nhân tác phẩm;
- di chúc hợp pháp, bản án, quyết định của Toà án về việc chia di sản thừa kế trong trường hợp khắc phục mâu thuẫn nảy sinh trong khoảng thừa kế quyền tác giả;
- giao kèo dùng tác phẩm trong trường hợp giải quyết tranh chấp về giao kèo tiêu dùng tác phẩm;
- hiệp đồng dịch vụ bản quyền tác giả trong trường hợp giải quyết mâu thuẫn về hiệp đồng nhà sản xuất bản quyền tác giả;
- hợp đồng thuê trình diễn nghệ thuật, hợp đồng công ty phân phối chương trình văn hoá, nghệ thuật; hợp đồng cung cấp, phát hành băng ghi âm, ghi hình; hiệp đồng trong ngành nghề phát thanh, truyền hình trong trường hợp khắc phục mâu thuẫn phát sinh trong khoảng các quan hệ này;
- Hoá đơn trả tiền thù lao, nhuận bút trong trường hợp khắc phục mâu thuẫn can hệ đến quyền hưởng các khoản này của tác kém chất lượng.
Đối có mâu thuẫn về quyền với công nghiệp, những tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được sở hữu trị giá là bằng chứng bao gồm:
- Văn bằng bảo hộ đối tượng có công nghiệp được dùng để chứng minh người với tên trong văn bằng là tác kém chất lượng, chủ sở hữu đối tượng có công nghiệp. Cụ thể là Bằng độc quyền sáng chế, biện pháp bổ ích, mẫu mã công nghiệp. Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, Giấy chứng nhận quyền tiêu dùng tên gọi nguồn cội hàng hoá, Giấy chứng thực đăng ký mẫu mã sắp đặt mạch tích hợp bán dẫn, Bằng bảo hộ giống cây trồng mới;
- giao kèo thuê sáng tạo; hiệp đồng lao đồng và văn bản giao việc trong trường hợp chứng minh là chủ nhân đối tượng mang công nghiệp trong trường hợp chứng minh người nào là tác fake, chủ nhân đối tượng có công nghiệp;
- chúc thư hợp pháp, bản án, quyết định của Toà án về việc chia di sản thừa kế trong trường hợp giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền sở hữu công nghiệp;
- giao kèo chuyển giao quyền sở hữu đối tượng có công nghiệp, giao kèo li-xăng trong trường hợp giải quyết tranh chấp phát sinh từ những hợp đồng này;
- hợp đồng dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp trong trường hợp giải quyết mâu thuẫn phát sinh trong khoảng hiệp đồng này;
- Đơn và các hồ sơ khác chứng minh đã nộp đơn;
- các hiệp đồng, thủ tục khác về việc mua bán, gửi giữ, quảng cáo, xuất khẩu, nhập cảng hàng hoá/dịch vụ mang gắn đối tượng với công nghiệp đã được bảo hộ trong trường hợp chứng minh hành vi vi phạm quyền với công nghiệp;
- các hoá đơn, chứng từ hợp lệ;
- Danh mục nhãn hàng hàng hoá nổi danh trong trường hợp chứng minh nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại giống hoặc như vậy có thương hiệu hàng hoá nức danh.
bên cạnh đó, 1 số tang vật cũng sở hữu thể được dùng. Ví dụ: Hàng hoá gắn đối tượng sở hữu công nghiệp đã được bảo hộ; hàng hoá gắn đối tượng có công nghiệp bị coi là vi phạm; những khoản thu lợi bất chính…
4. giám định
Vấn đề thẩm định thường được đặt ra trong trường hợp đối tượng có trí tuệ đang tranh chấp là đối tượng phức tạp. Theo Điều 90 – Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, thẩm phán ra quyết định trưng cầu đánh giá theo sự thoả thuận lựa chọn của các đối tác đương sự hoặc theo yêu cầu của 1 hoặc các bên đương sự. Kết luận giám định là 1 nguồn chứng cớ quan trọng. bên cạnh đó, Điều 67 – Bộ luật tố tụng dân sự về người giám định chỉ quy định chung chung “Người thẩm định là người sở hữu kiến thức, kinh nghiệm cần phải có theo quy định của ngành nghề với đối tượng cần giám định”. đến giờ, trong ngành nghề sở hưũ trí não, chưa sở hữu quy định cụ thể cơ quan nào sở hữu thẩm quyền thẩm định, trình tự, giấy tờ giám định ra sao. Trong thực tiễn, thẩm quyền đánh giá đối tượng với trí tuệ thuộc về Cục với trí tuệ, khi mà ấy đây lại là một cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu công nghiệp.
Nên quy định 1 cơ quan độc lập mang thẩm quyền đánh giá đối tượng với trí não, hành vi xâm phạm quyền mang trí óc. Đối sở hữu quyền tác nhái, đấy là cơ quan độc lập thuộc Bộ văn hoá-thông tin, còn đối sở hữu quyền có công nghiệp, ấy là cơ quan thuộc Bộ khoa học-công nghệ.
5. Xác định mức bồi hoàn
giấy má tố tụng dân sự cho phép tác nhái, chủ sở hữu của tác phẩm văn học, nghệ thuật, công nghệ và tác kém chất lượng, chủ nhân những đối tượng với công nghiệp cũng như những chủ thể có quyền liên quan khác được quyền khởi kiện đề nghị Toà án công nhận quyền của mình; buộc người sở hữu hành vi xâm phạm quyền tác nhái, quyền mang công nghiệp chấm dứt hành vi xâm phạm; đề nghị người có hành vi xâm phạm; và buộc người sở hữu hành vi xâm phạm phải bồi hoàn thiệt hại. tuy nhiên, luật pháp Việt Nam chưa quy định cụ thể về bí quyết xác định thiệt hại, mức bồi hoàn thiệt hại trong trường hợp quyền mang trí não bị xâm hại. nếu như chỉ căn cứ vào những quy định về “Trách nhiệm bồi hoàn thiệt hại ngoài hợp đồng” tại chương 5, phần thứ ba của Bộ luật dân sự sẽ ko thoả đáng lúc giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại do đối tượng với trí não bị xâm phạm. Hơn nữa, theo nguyên tắc, nguyên đơn sở hữu trách nhiệm chứng minh mức độ thiệt hại thực tại và thiệt hại tiềm tàng của mình do hành vi xâm phạm quyền mang công nghiệp gây ra. tuy nhiên, để chứng minh được điều này là điều ko thuần tuý có bên nguyên.
ngày nay, các Toà án rất lúng túng trong việc giải quyết vấn đề đền bù thiệt hại cho bên nguyên. Trong phần nhiều các vụ việc, việc xác định mức bồi hoàn cho nguyên đơn là không thoả đáng, vì thế không kiểm soát an ninh được hưởng ích chính đáng của họ. Về vấn đề này cần được xác định rõ trong Luật có trí óc đang được vun đắp, hoặc chỉ dẫn xét xử của Toà án dân chúng vô thượng.
Theo chúng tôi, nên quy định: Thứ nhất, mức đền bù được xác định trên hạ tầng tổn thất thực tiễn mà tác kém chất lượng, chủ sở hữu, người mang quyền sử dụng hợp pháp đối tượng mang trí óc phải gánh chịu do hành vi xâm phạm quyền mang trí óc. Thứ 2, thiệt hại bao gồm: Thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Thiệt hại về vật chất bao gồm: tổn thất về tài sản, mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, giá tiền hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, tầm giá hợp lý để thuê luật sư, tổn thất về cơ hội kinh doanh. Thiệt hại về tinh thần bao gồm: tổn thất về danh dự, phẩm giá, uy tín, tăm tiếng và các tổn thất khác về ý thức.
6. Kết luận
Rõ ràng, cơ sở vật chất pháp lý cho việc khắc phục mâu thuẫn về quyền mang trí tuệ theo hồ sơ tố tụng dân sự chưa cụ thể, chưa phần lớn. Điều này gây khó khăn cho các cơ quan giải quyết mâu thuẫn và cho cả đương sự, khiến cho hiệu quả thực thi quyền có trí tuệ ở nước ta không cao. thành ra, việc hoàn thiện cơ sở vật chất pháp lý cho việc thực thi quyền mang trí tuệ khái quát và giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí óc theo hồ sơ tố tụng dân sự đề cập riêng khôn xiết cần thiết.
Để bảo đảm khắc phục tốt hơn mâu thuẫn về quyền mang trí tuệ theo thủ tụng tố tụng dân sự, cần phải quy định cụ thể hơn về những vấn đề: một. các mâu thuẫn về quyền với trí tuệ thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án; hai. những tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện mâu thuẫn về quyền với trí óc trước Toà án; 3. những chứng cớ đương sự được sử dụng trong thời kỳ chứng minh; 4. Cơ quan sở hữu thẩm quyền giám định và lớp lang, thủ tục giám định; 5. Nguyên tắc bồi thường và xác định mức định đền bù khi quyền mang trí tuệ bị xâm phạm.
Nhằm hoàn thiện những quy định pháp luật tố tụng dân sự về giải quyết tranh chấp quyền tác fake và quyền sở hữu công nghiệp, theo chúng tôi: không nên bổ sung các quy định về những khó khăn được phân tích trên đây vào Bộ luật tố tụng dân sự mà nên theo hướng quy định trong những văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật tố tụng dân sự và đặc thù là văn bản hướng dẫn xét xử của Toà án nhân dân tối cao (bên cạnh ấy, cũng nên quy định trong văn bản luật pháp nội dung là Luật có trí tuệ). Bởi vì, Bộ luật tố tụng dân sự là cơ sở vật chất pháp lý quan trọng nhất trong việc khắc phục các vụ việc dân sự. Bộ luật chỉ quy định chung về nguyên tắc, lớp lang, giấy tờ, quyền, phận sự của các chủ thể trong quá trình khắc phục vụ việc dân sự mà ko quy định cụ thể cho từng vụ án, việc dân sự.
cùng lúc sở hữu việc hoàn thiện các quy định luật pháp, thiết yếu phải nâng cao trình độ của các thẩm phán chuyên trách về lĩnh vực với trí óc. Điều này góp phần nâng cao quả giải quyết tranh chấp và làm nâng cao độ tin cậy của các đương sự trong tranh chấp về quyền có trí tuệ./.
[1] Để bảo vệ quyền tác kém chất lượng, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định 2 tội: tội xâm phạm quyền tác fake (Điều 131) và tội vi phạm những quy định về xuất bản, phát hành sách, báo, đĩa âm thanh, băng âm thanh, đĩa hình, băng hình hoặc những ấn phẩm khác (Điều 271). Để bảo vệ quyền có trí óc, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định các tội: 1. Tội phân phối, buôn bán hàng kém chất lượng (Điều 156); Tội phân phối, buôn bán hàng fake là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 157); Tội cung ứng, kinh doanh hàng nhái là thức ăn tiêu dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng vật nuôi (Điều 158); Tội lừa dối các bạn (Điều 162); Tội xâm phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền mang công nghiệp (Điều 170); Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171).
[2] Xem khoản 3-Điều 9; khoản 2-Điều 14; khoản hai và khoản 3-Điều 28 của Pháp lệnh bảo hộ quyền mang công nghiệp năm 1989.
[3] Nghị định 76-CP ngày 29/11/1996 của Chính Phủ chỉ dẫn thi hành một số quy định về quyền tác fake trong Bộ luật dân sự, Nghị định 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính Phủ quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp chỉ quy định
4. Xem Điều 759– Bộ luật dân sự; điểm c-khoản một, Điều 796– Bộ luật dân sự; điểm c-khoản 1-Điều 800–Bộ luật dân sự; Điều 7- Nghị định 76/CP; Điều 54-Nghị định 63/CP.
5. Dự thảo Luật sở hữu trí tuệ cũng quy định về bằng chứng mà đương sự mang quyền sử dụng trong giai đoạn giải quyết mâu thuẫn về quyền với trí não. bên cạnh đó, đây vẫn là quy định sơ lược.